Hồ Chí Minh: Kẻ trộm
thơ
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Hồ Chí Minh (HCM) được chế độ cộng sản (CS) xem là một
nhà thơ lớn. Các giáo sư, các nhà nghiên cứu văn học CS thi nhau bốc thơm.
Trong các kỳ thi trung học dưới mái trường CS, thơ HCM thường được đưa ra làm
đề tài cho các em học sinh bình giải.
Theo viện Văn học Hà Nội, thi phẩm vĩ đại nhất
của HCM là quyển Ngục trung nhật ký viết bằng chữ Hán, xuất
bản tại Hà Nội năm 1960, gồm 132 bài thơ, đại đa số là tứ tuyệt (thơ 4 câu 7
chữ). Viện nầy cho biết HCM “đã viết trong cảnh lao tù từ mùa thu 1942
đến mùa thu 1943” (1). Ngục trung nhật ký đã được dịch qua chữ Việt,
phát hành hàng trăm ngàn bản ở trong nước và cũng đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng ở hải ngoại.
Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, nguyên là giáo sư
văn chương Việt Nam tại Đại học Văn khoa Huế và Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau
năm 1975 định cư tại Montreal, Canada, đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng tập thơ nầy
và chứng minh rằng đa số các bài thơ trong Ngục trung nhật ký do
một người Trung Hoa tên là “Già Lý” sáng tác, và chỉ có khoảng trên dưới 10 bài
tứ tuyệt là của HCM. (2)
Giáo sư Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm
nầy và đưa ra nhận xét như sau:"Phần phân tích ở trên chứng thực già Lý
là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ
nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh.
Tôi chỉ nói là có thể vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích
thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác." (3)
Chỉ cần nhìn sơ qua hình bìa nguyên bản quyển
Ngục trung nhật ký cũng đã thấy mâu thuẫn ngay từ đầu. Tấm bìa
nguyên thủy của sách nầy ghi rõ ngày, tháng và năm sáng tác là 29-8-1932
/ 10-9-1933, trong khi Viện Văn học cho rằng HCM sáng tác tập thơ nầy trong
hai năm 1942 và 1943.
Ngoài những nghiên cứu của giáo sư Lê Hữu Mục,
còn có những phát hiện khá thú vị khác về tài cóp thơ hoặc là trộm thơ của
người khác của HCM. Ví dụ trong tuyển tậpQuốc Học, trường tôi do
nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành tại Huế năm 1996, có đăng bài thơ “Tầm
hữu vị ngộ” của HCM.
Tuyển tập nầy chú giải rằng bài thơ “Tầm
hữu vị ngộ” là của HCM gởi cho Võ Nguyên Giáp năm 1954, và "mới
được phát hiện". Giáo sư Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, trong bài "Ai là
tác giả bài Tầm hữu vị ngộ?" (4), cho rằng nếu bài thơ nầy của
một lãnh tụ (HCM) tặng cho một viên tướng (Võ Nguyên Giáp), được sáng tác năm
1954, cả hai đang cầm quyền và cầm quân, mà sao đến năm 1990 mới được phát
hiện? Hai người nầy đều là những nhân vật quan trọng đầu não của chế độ CS, mà
sao bài thơ có thể thất lạc một thời gian dài (1954-1990)? Giáo sư Tuệ Quang đi
sâu vào chi tiết bài thơ và nhận xét: "Tóm lại, bài thơ "Tầm
hữu vị ngộ", xét về hình thức lẫn nội dung, không phù hợp với thi cách và
khuynh hướng của ông Hồ".
Hai câu chuyện trên đây còn đang được tranh
cãi, nhưng qua đến câu chuyện bài thơ dưới đây thì có lẽ khó cãi. Số là trong
sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, (5), đăng bản phiên âm bài thơ
bằng chữ Hán của HCM gởi cho trung tướng Trần Canh (sau lên đại tướng). Bài thơ
nầy còn được in trong sách Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (6). Nguyên
văn bản phiên âm bài thơ như sau:
Tặng Trần Canh Đồng
Chí
Hương tân mỹ tửu dạ
quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng
thôi
Túy ngọa sa trường
quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng
nhất nhân hồi.
Bản dịch nghĩa của sách nầy:
Tặng Đồng Chí Trần
Canh
Rượu ngọt “sâm banh”
trong chén ngọc dạ quang
Sắp uống, tỳ bà trên
ngựa đã giục giã
Say sưa nằm lăn nơi sa
trường, anh đừng cười nhé!
Chớ để một tên địch
nào trở về.
(Theo đúng nguyên văn trong Hồ Chí Minh toàn
tập, tập 6 tr. 101.)
Hồ Chí Minh và Trần Canh
|
Trần Canh (Chen Geng) lúc đó là một viên trung
tướng thân cận của Mao Trạch Đông, đang là ủy viên dự khuyết ban Chấp hành
Trung ương đảng CSTQ, tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số 4,
chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Vân Nam. Hồ Chí Minh trực tiếp xin Mao Trạch Đông
gởi Trần Canh qua làm cố vấn quân sự cho Việt Minh (VM).
Theo lệnh Mao Trạch Đông, Trần Canh đến Thái
Nguyên gặp HCM vào cuối tháng 7-1950. Trong chiến dịch biên giới, Võ Nguyên
Giáp dự tính tấn công Cao Bằng, nhưng Trần Canh chủ trương đánh Đông Khê. Theo
Trần Canh, địa thế Cao Bằng hiểm trở, công sự phòng thủ kiên cố và quân Pháp ở
đây đông, nên khó tấn công. Trong khi đó, Đông Khê tuy nhỏ, nhưng giữ một vị
trí chiến lược quan trọng trên phòng tuyến giữa Cao Bằng và Lạng Sơn; quân Pháp
ở đây ít, dễ tấn công hơn. Cuối cùng, VM vâng theo ý kiến của Trần Canh.
Ngày 16-9-1950, VM dùng chiến thuật biển người
theo kiểu Trung Cộng, tung khoảng 10,000 quân tấn công Đông Khê, một cứ điểm
nhỏ do 260 quân Pháp trấn giữ. Đông Khê ở phía đông nam Cao Bằng, phía bắc Thất
Khê. (Thất Khê ở phía tây bắc Lạng Sơn). Sau ba đêm và hai ngày kịch chiến (16
đến 18-9-1950), VM chiếm Đông Khê.
Trận Đông Khê là trận thắng đầu tiên của VM,
cô lập Cao Bằng và cắt đứt tỉnh lộ số 4, nối Cao Bằng với Lạng Sơn. Sau trận
nầy, Trần Canh còn cố vấn cho Võ Nguyên Giáp thi hành kế hoạch “công đồn đả
viện”, chận đánh riêng biệt hai cánh quân do hai trung tá Pháp chỉ huy. Cánh
quân của trung tá Marcel Lepage rời Thất Khê tiến lên Đông Khê, bị VM phục kích
ở Cốc Xá (nam Đồng Khê) ngày 8-10-1950. Trong khi đó, đơn vị của trung tá
Pierre Charton rút khỏi Cao Bằng ngày 3-10-1950, cũng bị VM phục kích ngày
10-10-1950 tại đồi 477, tây nam Đông Khê.
Trong hai trận nầy, số quân Pháp vừa tử trận,
vừa bị bắt làm tù binh lên đến 4,000 binh sĩ, 354 hạ sĩ quan và 98 sĩ quan,
trong đó có hai sĩ quan cấp trung tá. Đây là trận thất bại nặng nề đầu tiên của
Pháp kể từ khi chiến tranh bắt đầu năm 1946. Ngoài số thương vong và thất thoát
võ khí trên đất, lần đầu tiên 15 chiến đấu cơ của Pháp bị súng cao xạ của VM do
Trung Cộng viện trợ, bắn hạ. Ngược lại, hai cuộc phục kích nầy là chiến thắng
lớn lao nhất của VM từ năm 1946, hoàn toàn do quyết định của tướng TC.
Theo ghi chú dưới bài thơ HCM tặng Trần Canh
trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, tr. 101, thì HCM gởi bài
thơ nầy cho Trần Canh trước ngày 9-10-1950, nghĩa là HCM chúc mừng Trần Canh
sau trận thắng Đông Khê ngày 18-9-1950, nhưng trước hai trận VM phục kích ở
phía nam Đông Khê tháng 10-1950.
Đọc bài thơ nầy, ai cũng cảm thấy phảng phát
âm hưởng bài thơ rất nổi tiếng của Vương Hàn đời Đường bên Trung Hoa là bài
“Lương Châu từ”, được phiên âm như sau:
Lương Châu Từ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang
bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng
thôi
Túy ngọa sa trường
quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi.
Trần Trọng San dịch:
Bài Hát Lương Châu
Rượu bồ đào, chén dạ
quang
Muốn say, đàn đã rền
vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai
cười
Từ xưa chinh chiến mấy
người về đâu?
So sánh hai bài thơ tứ tuyệt “Tặng đồng chí
Trần Canh” của HCM và “Bài hát Lương Châu” của Vương Hàn, cách nhau cả hơn một
ngàn năm, mỗi bài thơ chỉ có 28 chữ, mà hai bài thơ chỉ khác nhau có bảy chữ.
Đó là hai chữ đầu bài thơ (“bồ đào” thay bằng “hương tân” tức rượu champagne;
và năm chữ câu cuối). Còn hai câu giữa hoàn toàn giống nhau, nghĩa là hết ba
phần tư (3/4) bài thơ nguyên là của bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn.
Câu kết bài thơ HCM tặng Trần Canh trong tổng
thể cả bốn câu của bài thơ, thật là vô duyên và lại lạc đề, vì ý nghĩa câu nầy
chẳng ăn nhập gì đến ý nghĩa ba câu trên của bài thơ. Ba câu trên đang nói
chuyện uống rượu trong một cái chén dạ quang sang trọng, phải vội vàng ra đi
theo tiếng nhạc xuất quân, dù có say sưa ngoài chiến trường thi xin mọi người
đừng cười... Bài thơ đang đến hồi sảng khoái, hào hùng thì HCM lại kết luận
trật chìa một cách vô duyên, chẳng có hồn thơ, làm mất hứng thơ: “Địch
nhân hưu phóng nhất nhân hồi”. (Chớ để một tên địch nào trở về). Đang
nói chuyện xin đừng cười kẻ lỡ say ngoài chiến trường sao mà “chớ để
một tên địch nào trở về”, thì thật là lãng nhách.
Trong khi đó, câu kết của Vương Hàn “Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Từ xưa chinh chiến mấy người về), vừa hào
hùng phù hợp với ý tưởng ba câu thơ trên, vừa là tâm trạng của những chiến binh
xông pha trận mạc, biết rằng chiến tranh có những rủi ro không sao đoán trước
được, nên từ xưa đến nay, những người ra đi xông pha chiến trận, thì mấy người
trở về? Vì vậy mới xin đừng cười kẻ lỡ say trên đường ra trận. Lời thơ trong
câu kết của Vương Hàn vang lên như là một điệu nhạc vừa hùng tráng và cũng vừa
bi ai. (Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.)
Trừ trường hợp Trần Canh là người dốt nát,
không biết đọc chữ thì Trần Canh mới không phát hiện được HCM chép lại thơ
Vương Hàn. Tuy nhiên, Trần Canh là người đã từng đủ điều kiện để theo học khóa
1 trường võ bị Hoàng Phố (Quảng Châu) tháng 5-1924, nổi tiếng học giỏi và được
mệnh danh là một trong ba nhân tài của Hoàng Phố (Hoàng Phố tam kiệt), đã từng
là hiệu trưởng trường Lục quân Bành Dương, đã lên tới cấp trung tướng, đang giữ
chức tư lệnh quân khu Vân Nam kiêm chính ủy binh đoàn số 4, chủ tịch Ủy ban Nhân
dân tỉnh Vân Nam. Chắc chắn Trần Canh có một trình độ học vấn căn bản và vốn là
một quân nhân, Trần Canh phải biết bài thơ trứ danh về chiến tranh của Vương
Hàn, nhất là hai câu chót: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi”, hầu như là hai câu nằm lòng của giới nhà binh.
Nay HCM lại “múa rìu qua mắt thợ”, lấy nguyên văn hai câu thơ của
Vương Hàn làm quà tặng cho đồng hương con cháu của Vương Hàn. Trần Canh nghĩ
sao về việc nầy?
Phải chăng đây là thơ “tập cổ” theo lối người xưa?
Nếu tập cổ thì mượn một câu chứ không mượn 3/4 bài, và ít nhất khi in lại cũng
ghi là thơ tập cổ từ thơ của ai? Hay đây là lối đánh lận con đen trí trá cố hửu
của HCM? Nếu ai biết thì chối là thơ tập cổ, nếu ai không biết thì khoe là thơ
của HCM và đăng vào sách, lưu truyền về sau. Ngày nay, chỉ cần chép nguyên văn
một câu của người khác mà không đề xuất xứ, thì bị ghép vào tội đạo văn, ăn cắp
thơ. Trong bài thơ nầy, HCM ăn cắp những ba phần tư (3/4) bài thơ của Vương
Hàn.
Đúng là HCM, chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa tức nhà nước cộng sản Bắc Việt Nam, xứng đáng là chủ tịch trộm thơ liều
lĩnh. Thế mà đảng CSVN luôn luôn kêu gọi học tập đạo đức HCM tức là học luôn
cách trộm thơ hay trộm công trình sáng tác của người khác. Có thể do nhờ học
tập đạo đức kiểu đó nên viên hiệu phó Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội đã đạo
văn luận án tiến sĩ của người khác. Chỉ khác một điều là vào đầu năm nay (2014)
có người tố cáo viên hiệu phó ăn cắp sở hữu trí tuệ của người khác, mà chẳng ai
chịu tố cáo HCM đã trộm thơ của người khác. Nếu viên hiệu phó Đại Học Bách Khoa
Hà Nội công khai thừa nhận đã trộm luận văn của người khác vì đã học theo gương
đạo đức HCM, thì hy vọng có thể khỏi bị truy tố.
Chẳng những trộm thơ, mà HCM còn trộm tư tưởng
của người khác. Ví dụ rõ nét nhất còn được các trường học ở Việt Nam hiện nay
truyền tụng như là tư tưởng HCM, là câu mà HCM đã phát biểu trong cuộc học tập
chính trị khoảng hơn 3,000 giáo viên ngày 13-9-1958 tại Hà Nội: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (7).
Câu nầy, HCM ăn cắp nguyên ý của Quản Trọng, tể tướng ngước Tề thời Xuân
Thu (722-479 trước CN). Quản Trọng nói: “Nhất niên chi kế mạc ư thụ
cốc; thập niên chi kế mạc ư thụ mộc; bách niên chi kế mạc ư thụ nhân.” (Kế
một năm trồng lúa; kế mười năm trồng cây; kế trăm năm trồng người.) Nếu kể
chuyện HCM đạo văn thì còn nhiều chuyện nữa, kể cả bản Tuyên ngôn ngày 2-9-1945
của HCM...
Lãnh tụ số một của CSVN còn như thế, thì trách
chi hiệu phó Đại Học Bách Khoa Hà Nội trộm luận án và trách chi nền văn hóa
giáo dục CSVN suy sụp và xuống cấp.
Toronto, 26-11-2014
______________________________________
Chú thích:
(1) Lê Hữu Mục trích dẫn, Hồ Chí Minh
không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Toronto: Văn Bút Hải Ngoại,
1990, tt. 12-13.)
No comments:
Post a Comment